Một bài giảng hay của Thầy Thích Thái Hòa, học để thực tập chánh niệm.
* Ước mơ và thất vọng:
Thưa đại chúng! Ai trong chúng ta mà không có một lần mơ và ai trong chúng ta đã không có một lần thất vọng vì ước mơ của mình, người nào càng mơ ước nhiều, thì người đó càng thất vọng nhiều. Ở trong đời, người nào không có mơ ước thì người đó không có thất vọng, ước mơ ít, thì thất vọng ít, ước mơ nhiều, thì thất vọng nhiều, đó là một sự thật. Nhưng, tại sao chúng ta thấy vậy mà chúng ta cứ ước mơ, động cơ thúc đẩy để chúng ta ước mơ là do chúng ta không bằng lòng với cái mà chúng ta đang có và do chúng ta không bằng lòng với cái đang có, nên chúng làm cho chúng ta thất vọng. Chúng ta đang sống ở đây mà mơ lên thiên đàng, chúng ta đang sống ở đây mà mơ về cực lạc, đang sống ở đây mà mơ qua Mỹ. Một em bé mơ mình phải là một vị Nguyên Thủ quốc gia, một người đang đi học mơ mình sẽ là một tỷ phú, một người đang viết văn mơ mình sẽ là một nhà văn hào nổi tiếng Thế giới. Tất cả những mơ ước đó đã gậm nhấm và làm tiêu tan hạnh phúc, an lạc của rất nhiều người. Người mơ ước nhiều là người đang trốn chạy những cái hiện thực đang có ở nơi họ. Nhưng thử hỏi chúng ta có trốn chạy được những điều mà chúng ta đang có không? Chúng ta càng trốn chạy khỏi nó bao nhiêu, thì nó lại càng chạy theo chúng ta bấy nhiêu. Bởi vậy, chúng ta khổ đau nhiều, là do chúng ta trốn chạy cái hiện thực chúng ta đang có và chạy theo cái chúng ta chưa có.
* Đối diện và chuyển hóa:
Thưa đại chúng ! Nếu giả như quý vị ra khỏi chùa Từ Hiếu, có người hỏi quý vị rằng, quý vị mơ ước điều gì mà đến chùa Từ Hiếu để tu tập như thế. Nếu chúng ta có tu tập chánh niệm, thì chúng ta phải trả lời bằng trực giác, bằng trái tim của chúng ta, chứ không phải trả lời bằng thế giới của ý niệm, của biện luận. Có rất nhiều người đặt câu hỏi đó với tôi. Họ hỏi rằng, tôi tu để làm gì? Vì sao mà tôi đi tu? Tôi trả lời với họ rằng, tôi đi tu là để đi tu. Có đôi người đi tu mà không chịu tu, đi tu là một cái cớ để làm chuyện khác, vì thế nên họ ở trong chùa đến 30 năm, 40 năm, mà họ vẫn khổ đau, vẫn nhân ngã, vẫn sân si, vẫn cố chấp, vẫn bẩn thỉu như thường. Còn chúng ta đi tu là để tu, chứ không là gì khác, không mơ ước cái gì khác. Tu là nhìn vào sự thật để chuyển hóa. Chúng ta khổ là khổ ở nơi thân và tâm này, không có cái khổ ngoài thân và tâm này, cái khổ của tất cả chúng ta có gốc rễ từ nơi thân và tâm này. Chúng ta đi tu, chúng ta ngồi thiền, chúng ta niệm Phật, chúng ta thiền hành, chúng ta tụng Kinh, chúng ta bố thí, chúng ta cúng dường, chúng ta thương người, giúp vật, ... tất cả những cái đó là để nhận diện thật sâu sắc ở nơi cái thân và tâm của chúng ta, đồng thời để chúng ta loại bỏ dần các cảm thọ khổ ưu ở nơi thân và tâm của chúng ta. Như vậy, chúng ta tu tập không phải để trốn chạy sự thật, chúng ta tu tập để trở về nhận diện bản thân chúng ta một cách đích thực và để thấy rõ được bản thân chúng ta đang là cái gì trong đời sống hiện thực này. Chúng ta tu tập không phải để trốn chạy những cảm thọ khổ ưu, chúng ta tu tập để trở về nhận diện nơi tâm thức của chúng ta có những hạt giống nào đẩy chúng ta đi vào cửa ngõ thất vọng, đẩy chúng ta đi vào cửa ngõ tối tăm, chật hẹp. Khi những hạt giống đó khởi lên trên bề mặt ý thức, nó đẩy chúng ta đi tới với khung trời bé nhỏ, chật hẹp, đi vào con đường tuyệt lộ, thì chúng ta phải nhìn sâu vào hạt giống đó và chuyển hóa nó. Như vậy vấn đề tu học của chúng ta không phải là vấn đề trốn chạy, không phải chúng ta sợ khổ mà tu. Nếu chúng ta sợ khổ mà tu, thì chúng ta không bao giờ thoát khổ, bởi vì, chúng ta sợ cái gì, thì cái đó là mối đe dọa cho chúng ta. Chúng ta sợ ma, thì sẽ bị ma đe dọa. Chúng ta sợ quyền lực, thì sẽ bị quyền lực đe dọa. Chúng ta sợ khổ, thì sẽ bị khổ đe dọa. Có nhiều người chưa khổ, mà vị họ sợ khổ quá, cho nên họ héo hắt, sầu muộn. Có đôi người chưa chết, nhưng vì họ sợ chết quá, nên cái chết đến sớm hơn bình thường. Nhiều người sợ đau, sợ bệnh, nên họ hay bị bệnh. Bởi vì, khi chúng ta sợ hãi, thì thần kinh chúng ta bị căng thẳng, nên nó sinh hoạt không bình thường, tim sẽ đập không bình thường, não bộ của chúng ta suy nghĩ không bình thường, chính cái không bình thường đó đã đưa chúng ta đi đến với sự hủy diệt sớm hơn. Đáng lẽ ra chúng ta sống lâu hơn, sống thoải mái, sống an lạc, nhưng vì chúng ta sợ khổ, sợ bệnh, sợ chết, sợ quyền lực, sợ ma, sợ đủ thứ, nên, chúng ta chết sớm, chúng ta mất hết an lạc, thảnh thơi trong cuộc sống. Như vậy, chúng ta tu tập không phải là trốn chạy khổ đau, trốn chạy sự bất lực của chúng ta. Người tu tập, là người có nghị lực nhìn nhận những gì đang diễn ra nơi thân và tâm của mình. Người không có khả năng nhận diện những gì đang xảy ra nơi thân và tâm của mình, thì người đó không phải là người có nghị lực, người đó không có sức mạnh của đại hùng, người đó không phải là người có hiểu biết của đại trí và người đó không có được tình yêu thương của đại bi. Vì khi chính chúng ta còn không hiểu được chúng ta, thì làm sao chúng ta hiểu được người khác. Chúng ta không có năng lực làm cho chúng ta bình ổn, thì chúng ta làm sao làm cho người khác được bình ổn. Và khi chúng ta không có khả năng thương yêu chúng ta, thì chúng ta cũng không có khả năng yêu thương ai, chúng ta không thể che chở cho ai và giúp cho ai được. Chúng ta muốn giúp cho ai ra khỏi tình trạng bế tắc, thì trước hết chúng ta phải là những con người không bị bế tắc. Người ở tù thì làm sao xin cho người đang ở tù ra khỏi tù được, đó là một sự thật. Người không có hạnh phúc an lạc, thì không thể tạo ra được năng lượng hạnh phúc, an lạc cho người khác. Người có nhiều lo âu, sợ hãi, thì họ không thể trao tặng sự thanh thoát, trầm hùng cho người khác.
* Thân và tâm là thực tại nhiệm mầu:
Thưa đại chúng! Hiện tại chúng ta đang có bàn tay, chúng ta có đôi chân, chúng ta có mắt, mũi,... chúng ta có một thân thể toàn vẹn như thế, chúng ta có một tâm hồn tỉnh táo, sáng suốt, có nhận thức hiểu biết như thế, đó là một thực tại rất nhiệm mầu. Vì vậy, chúng ta phải biết quay lại với cái đầu của chúng ta, chúng ta phải biết nuôi dưỡng nó trong chiều hướng giải thoát, an lạc. Chúng ta đã có một thực tại mầu nhiệm, một thực tại đẹp hơn bất cứ một mơ ước nào. Có nhiều người mơ có cái đầu bình thường như chúng ta, nhưng không bao giờ có. Họ mơ có đôi mắt sáng, nhưng mơ ước đó không thành. Trong lúc đó, chúng ta có một thân thể đầy đủ như thế này, mà chúng ta không biết quay đầu trở lại để nhìn và thấy rằng thực tại của chúng ta đẹp hơn giấc mơ, chúng ta cứ chạy theo mơ mộng. Ngoài thân, chúng ta còn có tâm, trong tâm của chúng ta có đủ tất cả, Phật cũng có, Bồ Tát cũng có, Thánh Hiền cũng có, chư Thiên cũng có, Tu La, Ngạ Quỷ, Địa Ngục, Súc Sinh cũng có, cái hiền lành của loài người cũng có, cái dễ ghét của loài người cũng có, nghĩa là tất cả những gì khắp vũ trụ pháp giới này, từ Thánh tới Phàm đều có trong tâm thức của chúng ta. Vậy, chúng ta đi tìm cõi Phật ở đâu? Cõi Bồ Tát ở đâu? Chúng ta tránh xa Địa Ngục ở đâu? Nếu tâm của chúng ta đầy những hạt giống Ta Bà, thì thế giới Ta Bà hiện ra cùng khắp. Nếu tâm chúng ta đầy những hạt giống Cực Lạc, thì thế giới Cực Lạc hiện ra trước mắt của chúng ta. Trong tâm thức của chúng ta đầy dẫy những hạt giống Địa Ngục, thì ở đâu chúng ta cũng bị tiếp xúc với loài Địa Ngục. Trong tâm của chúng ta đầy những hạt giống của loài Súc Sinh, thì chúng ta đi đâu chăng nữa, chúng ta cũng phải tiếp xúc với loài Súc Sinh. Chúng ta đừng nghĩ rằng, chúng ta vào chùa, thì chúng ta sẽ tiếp xúc được với các bậc Thánh, nếu tâm chúng ta đầy những hạt giống súc sinh, Thánh ở đó mà chúng ta không thể tiếp xúc được. Chúng ta không tiếp xúc được với bậc Thánh, là vì, chúng ta bị chướng ngại bởi những hạt giống súc sinh trong tâm thức của chúng ta, nó hiện ra và tương ưng với cái súc sinh bên ngoài. Có nhiều vị không nhận ra cái súc sinh nơi tâm thức của mình, họ ôm cái súc sinh nơi họ mà đi tìm các bậc Thánh, họ tìm hết cả cuộc đời mà vẫn không thấy Thánh đâu, cái mơ ước của họ tan hoanh. Chúng ta muốn nhận ra một vị thầy đẹp, thì trước hết, chúng ta phải có một cái tâm đẹp, nếu chúng ta không có tâm đẹp, chúng ta sẽ không thấy được ai trong cuộc đời này đẹp cả, điều này rất là hiện thực. Có nhiều người đến Từ Hiếu, điện Phật trang nghiêm, đẹp biết bao, thế mà họ mang dép, đội nón để bước vào điện, nhìn lên bàn Phật. Phật có đó, nhưng tâm của họ là tâm súc sinh, tâm kiêu mạn, tâm bất kính, cho nên, họ không thấy Phật. Ai mà có tâm khiêm tốn, tâm Thánh hiền, tâm hiểu biết, thì khi người đó nhìn cái gì, cái đó cũng trở nên thánh thiện cả, cái gì cũng đẹp hơn giấc mơ. Do đó, thầy Nhất Hạnh đã nói rằng: “Thực tại đẹp hơn giấc mơ”, điều đó chúng tôi đã nhận ra được, thân của chúng ta đẹp hơn giấc mơ, tâm của chúng ta đẹp hơn giấc mơ. Bởi vì, giấc mơ chỉ là sự vẽ vời của tâm thức mà thôi, khi tâm đẹp, nó mới vẽ ra được những bức tranh đẹp, phải không quý vị? Bây giờ, chúng ta tu, chúng ta phải trở về làm chủ cho được tâm của chúng ta. Khi chúng ta không làm chủ tâm của chúng ta, chúng ta càng mơ, thì chúng ta càng thêm thất vọng mà thôi. Đức Phật dạy: “Tâm làm chủ các pháp.Tâm làm chủ, tâm tạo tác tất cả”. Tâm tạo thiên đường, tâm tạo địa ngục, tâm tạo ta bà, tâm tạo tịnh độ. Cho nên, chúng ta muốn mơ, thì chúng ta phải tu, chúng ta phải trở về tiếp xúc với tâm, làm chủ tâm. Khi chúng ta làm chủ tâm rồi, chúng ta thích vẽ cái gì thì nó ra cái đó. Chúng ta thích vẽ thiên đàng, nó ra thiên đàng. Chúng ta thích vẽ địa ngục mà chơi, nó ra địa ngục. Người thích vẽ để chơi, thì người đó đã làm chủ được tâm, tùy theo hoàn cảnh để thi thiết bản nguyện độ sinh. Chúng ta chưa làm chủ được tâm, chúng ta thích vẽ thiên đàng, nhưng nó ra con rắn Hổ, chúng ta thích vẽ Thánh, nhưng nó ra toàn là súc sinh,. . .Khi chúng ta thích vẽ Thánh nhưng, nó ra con rắn, con rít, thì chúng ta thất vọng lắm, chúng ta buồn lắm, người chưa làm chủ được tâm, họ càng mơ bao nhiêu, thì họ càng thất vọng bấy nhiêu. Bởi vì, thực tại là thực tại của tâm. Thế giới thiên hình vạn trạng là thiên hình vạn trạng của tâm. Ai làm chủ được tâm, người đó làm chủ được tất cả, ai không làm chủ được tâm, người đó mất tất cả. Cho nên, khi có ai đó hỏi quý vị lên chùa Từ Hiếu để làm gì? Thì quý vị nói rằng: “Chúng tôi lên chùa để học cách làm chủ tâm, nơi nào hướng dẫn cho chúng tôi cách làm chủ tâm, cách gạn lọc tâm, thì chúng tôi đến”. Khi chúng ta không gạn lọc tâm, không làm chủ tâm, chúng ta để cho tâm chúng ta chạy lăng xăng, vọng ngoại, thì lẽ đương nhiên, trong đời sống của chúng ta sẽ có nhiều khổ đau, thất vọng. Và khi chúng ta càng chạy trốn khổ đau, thì khổ đau lại càng theo chúng ta để đe dọa.
* Hạt giống và những điều thiện trong ta:
Thưa đại chúng! Bài pháp thoại đầu tiên Đức Phật giảng dạy cho năm anh em Kiều Trần Như đó là Tứ Diệu Đế. Đế đầu tiên được Đức Phật nói đến là khổ đế. Ngài nói khổ đế, là Ngài nói cho mọi người biết rằng, chúng ta chấp nhận cái khổ là chấp nhận cái hiện thực trong cuộc sống. Chúng ta không thể trốn chạy hiện thực, chúng ta phải nhìn sâu vào hiện thực, chấp nhận hiện thực và chuyển hóa nó. Do vậy, người tu là người không trốn chạy khổ đau, họ chấp nhận khổ đau và chuyển hóa nó. Có nhiều người thấy chồng làm khổ mình nhiều quá, nên họ muốn ly dị. Họ xin ly dị chồng tức là họ muốn trốn chạy chồng, trốn hoài không được, phải ra tòa để xin ly dị. Khi ly dị rồi, họ chưa ớn, nên còn muốn lấy chồng khác, họ tưởng tượng ra ông chồng mới này phải dễ thương hơn ông chồng trước, nên chạy đi kiếm tìm ông chồng như họ mơ ước. Nhưng khi kiếm tìm được ông chồng mới, họ ở với nhau cũng chỉ được vài ba ngày thôi, rồi thì họ cũng thất vọng, vì ông này cũng tệ quá, xấu quá. Vì sao như vậy? Vì bà ta quên rằng, cái khổ đau đó không phải do ông chồng đó đem lại, mà là do chính những hạt giống ái dục, hạt giống si mê, hạt giống hận thù, oán đối ở trong tâm thức của bà ta. Hạt giống xấu đó còn trong tâm thức của chúng ta chừng nào, thì chúng ta ở với ai, chúng ta cũng thất vọng. Và hạt giống xấu đó còn có trong tâm thức của chúng ta, thì người tốt cũng trở thành người nguy hiểm và đều trở thành nỗi khổ của chúng ta. Như vậy, nếu chúng ta thông minh, chúng ta biết quay đầu lại, nhìn sâu vào những hạt giống trong tâm thức của chúng ta và phải nhận ra rằng những hạt giống này là từ nơi tâm thức của chúng ta, oán đối này là nơi tâm thức của chúng ta, chúng ta ôm hạt giống đó lại để chuyển hóa, chứ không được trốn chạy.
Thưa đại chúng! Chỉ có người tu hành mới có thể chấp nhận được câu nói: tu hành là không còn ước mơ nào nữa cả. Thực ra, trong giới văn nghệ sĩ phàm tục, họ nói rằng, nếu không có mơ ước, thì sẽ không sáng tác được, không mơ ước, thì không sáng tạo được, đời không mơ ước, thì xem như không còn gì nữa. Họ nói rằng, mơ ước là động cơ thúc đẩy cho người ta sống. Bây giờ, đạo Phật lại tháo mơ ước ra khỏi cuộc đời, thì làm sao người ta sống! Có nhiều người viết sách, họ phản ứng rằng, tu là không lấy vợ, mà sống như thế thì còn gì nữa! Thật sự, đạo Phật tùy hoàn cảnh, tùy theo trình độ, tùy theo hạnh nguyện của mọi người, mà Đức Phật thiết lập giới pháp. Đối với hàng cư sĩ tại gia, Đức Phật thiết lập 5 giới, giới thứ ba nói chỉ không được tà dâm, còn giới xuất gia, thì phải đoạn trừ dâm dục. Người xuất gia đoạn trừ dâm dục, thì họ sẽ được quả vị giải thoát cao hơn. Người tại gia chỉ đoạn trừ tà dâm thôi, nên họ sẽ được quả thánh thấp hơn. Đức Phật nói rằng, muốn được quả Thánh cao nhất, thì phải triệt tiêu ngũ dục. Còn vừa thích làm thầy tu vừa thích hưởng ngũ dục của thế gian, ước mơ như vậy chỉ đưa đến thất vọng mà thôi. Cho nên, thất vọng nhiều là do chúng ta, chứ đâu phải do cuộc đời. Chúng ta không nhận diện được điều đó, nên trách cuộc đời, cuộc đời không đáng sống nữa. Cuộc đời xưa như thế, nay cũng như thế và tương lai cũng sẽ như thế. Có đáng chán chăng, thì chỉ nên chán những tâm niệm hẹp hòi, thấp kém nơi tâm thức của chúng ta, chúng ta phải chuyển hóa cho được những hạt giống đó. Nếu chúng ta mang tâm niệm buồn chán, thì chúng ta ở đâu cũng chán. Nếu chúng ta mang tâm trạng an lạc, thanh thoát, thì ở đâu chúng ta cũng thoải mái.
Thưa đại chúng! Cách đây mấy năm, tôi có làm bài thơ:
“Biết vui thì ở nơi này
Với hoa cỏ lá cũng đầy mộng mơ
Biết vui am đá hóa thơ
Cõi này cũng đẹp còn mơ cõi nào
Cõi này cũng có trăng sao
Có ngàn vạn lối để vào như nhiên
Thông reo hát đá tham thiền
Cõi huyền nhiệm đó mệt tìm nơi đâu
Cõi huyền giữa cõi bể dâu
Nếu không dâu bể có đâu cõi huyền”
Thưa đại chúng! Chúng ta muốn làm đẹp cuộc đời, nhưng không tự làm đẹp tâm mình, thì chúng ta không thể nào làm đẹp cuộc đời. Muốn làm đẹp cuộc đời, trước hết chúng ta phải làm đẹp tâm của chúng ta. Muốn ổn định cuộc đời, trước hết chúng ta phải có khả năng tự ổn định tâm của chúng ta. Sở dĩ xã hội có nhiều loạn lạc, là vì tâm con người loạn lạc. Khi tâm của chúng ta ổn định, thì cái loạn bên ngoài sẽ tùy theo tâm mà ổn định. Khi tâm của chúng ta loạn, nếu chúng ta muốn chuyển cảnh, thì cảnh đó cũng trở thành loạn. Do đó, chúng ta phải biết trở về nhận diện những gì đang có với những điều kiện đang có, thì chúng ta sẽ có vô vàn hạnh phúc. Con mắt này, nếu chúng ta sử dụng chúng thiếu chánh niệm, nó sẽ tạo ra vô số tội lỗi, vậy tại sao, chúng ta không sử dụng nó để tạo ra vô số hạnh phúc cho chúng ta? Có những loài không có mắt, còn chúng ta đã có con mắt như thế này, sự hiện diện của hai con mắt rất là mầu nhiệm, chúng ta có được là vì chúng ta có một gốc rễ rất quý, nên chúng ta đừng nhìn cuộc đời bằng con mắt sầu muộn, chúng ta phải biết đem con mắt này để nhìn cuộc đời bằng sự thương yêu, khi đó chúng ta sẽ thấy được cuộc đời đẹp và quý. Như vậy, con mắt là một điều kiện của hạnh phúc mà chúng ta có, chúng ta không mơ ước gì nữa, chúng ta phải trở về để nuôi dưỡng hai con mắt. Hai lỗ mũi chúng ta có đây là một điều kiện của hạnh phúc. Nếu chúng ta sử dụng lỗ mũi thiếu chánh niệm để ngửi bậy, thì chúng ta sẽ biến cái thực tại mầu nhiệm của hạnh phúc đó thành một thực tại khổ đau và thất vọng. Nếu chúng ta sử dụng lỗ mũi có chánh niệm tỉnh giác, thì chúng ta có hạnh phúc rất lớn, dễ gì mà chúng ta có lỗ mũi đẹp. Có nhiều người mũi bị trịt, không thở được, nên chúng ta có được lỗ mũi bình thường như thế này là chúng ta đã có được một thực tại mầu nhiệm, một điều kiện tất yếu để tạo nên hạnh phúc. Chúng ta có hai lỗ tai, hai lỗ tai là một thực tại mầu nhiệm mà chúng ta đang có, nếu chúng ta biết trở về tiếp xúc với hai lỗ tai của chúng ta, thì chúng ta sẽ thấy rằng, chúng ta đang có điều kiện để tạo nên hạnh phúc an lạc cho mình và cho người. Nếu chúng ta không biết trở về tiếp xúc với hai lỗ tai của chúng ta, chúng ta không nuôi dưỡng hai lỗ tai của chúng ta bằng chất liệu chánh niệm, bằng chất liệu tỉnh giác, bằng chất liệu tuệ giác, thì hai lỗ tai này tức khắc trở thành một thực tại khổ đau và chúng ta sẽ có nhiều ưu não. Có nhiều khi chúng ta nghe ai đó nói một câu thôi, có thể tối về chúng ta bị mất ngủ, chúng ta bị mất ngủ là do ai? Do người nói hay do chúng ta quá vụng về khi sử dụng lỗ tai của mình, vì chúng ta vụng về không biết sử dụng nó cho mục tiêu tốt đẹp, chúng ta không biết nuôi dưỡng nó, nên nó trở thành một thực tại khổ đau. Có nhiều khi chúng ta bực bội quá, đau khổ quá, không thích nghe nữa, muốn đâm thủng hai lỗ tai cho rồi! Nhưng khi lỗ tai thật sự bị điếc rồi, chúng ta thấy người khác nói, nhưng ta không biết gì, thì chúng ta bực lắm, chúng ta sẽ bị rơi vào một thực tại khổ đau khác. Cho nên, lỗ tai là một phương tiện, một điều kiện tất yếu để cho chúng ta đi vào thế giới an lạc, hạnh phúc. Nhưng lỗ tai cũng là một điều kiện tất yếu để chúng ta đi vào chìm đắm trong thế giới khổ đau, thế giới của hận thù, thế giới của bất mãn.
* Ý thức và bài học ngồi trên đất;
Thưa đại chúng! Một câu chuyện trong kinh Bảo Tích nói rằng, có một anh chàng ném một viên đá vào con chó, con chó đau quá, nó sủa, nó chạy theo cục đá, nó gầm gừ với cục đá, nó cho rằng cục đá đã làm nó đau, nó tức. Cũng vậy, khi ta nghe mà bực mình, ta giận người nói chúng ta, thì cũng giống con chó sủa cục đá vậy. Người nói hay lỗ tai của chúng ta đâu có phải là kẻ tạo ra sự khổ đau, chính cái tâm, thái độ của chúng ta trong lúc nghe mới là chủ yếu tạo nên an lạc, hạnh phúc hay tạo nên khổ đau trong đời sống của chúng ta. Cho nên, bây giờ chúng ta đã có hai lỗ tai đang nghe được như là của báu, chúng ta đang có điều kiện của hạnh phúc, chúng ta còn đi tìm đâu nữa! Cái túc duyên, phước báu của chúng ta đã có đủ, tổ tiên, ông bà, cha mẹ của chúng ta để lại cho chúng ta đầy đủ hai lỗ tai, vậy tại sao chúng ta không trở về tiếp xúc, nhận diện lỗ tai, để thấy được giá trị đích thực của lỗ tai. Và ai là người điều khiển nó, chúng ta chuyển cách điều khiển nó, động cơ điều khiển nó, thì chúng ta sẽ có hạnh phúc, an lạc ngay trong đời sống hàng ngày. Cũng vậy, có nhiều người mũi bị điếc, mũi điếc là một bất hạnh, nghĩa là không thưởng thức mùi gì được, mùi bất tịnh cũng không hề hay biết là bất tịnh. Như vậy, mũi là một điều kiện của hạnh phúc. Cái miệng cũng thế, chúng ta đang có cái miệng đang nói được, đó là một điều kiện của hạnh phúc, một thực tại mầu nhiệm, tại sao chúng ta không sử dụng nó để đi vào một thực tại hạnh phúc, mà lại sử dụng nó để đi vào một thực tại khổ đau. Cho nên, đối với tôi, tôi không mơ ước gì hết, tôi đã có miệng rồi, tổ tiên, ông bà, ba mẹ đã cho chúng ta cái miệng một cách trọn vẹn, trời đất đã cho chúng ta cái miệng trọn vẹn, phước báo nhiều đời nhiều kiếp đã tạo cho chúng ta cái miệng trọn vẹn, cho nên chúng ta không mơ ước gì hết, chúng ta phải biết trở về nuôi dưỡng cái miệng trong chiều hướng thánh thiện, chúng ta nói lên những lời như thật, từ ái, dễ thương, dễ nghe. Khi chúng ta nói lên những lời như thế tức là để cho lỗ tai của chúng ta nghe, rồi từ đó nó sẽ được não bộ cất giữ, đẩy xuống tiềm thức, A lại gia thức. Khi A lại gia thức toàn là những hạt giống dễ thương, những hạt giống từ ái, những hạt giống lành mạnh, nó sẽ biểu hiện lên bề mặt ý thức của chúng ta và ý thức của chúng ta lúc nào cũng biểu hiện ra những lời nói lành mạnh, dễ thương, nên người đó đi đâu, ở đâu cũng đem lại hạnh phúc, an lạc cho mình và cho mọi người. Như vậy, chúng ta còn mơ ước gì nữa, chúng ta không còn gì để thất vọng. Có người gặp tôi, họ kính đề nghị tôi làm chức này, giữ vị trí khác. Tôi chỉ cười, tôi nói rằng, tôi đã có chỗ ngồi rồi, tôi không còn mong gì nữa. Họ hỏi tôi rằng, tôi ngồi ở đâu? Tôi nói với họ rằng, tôi ngồi dưới đất, ngồi dưới đất thì khỏi té, phải không? Nếu có té thì cũng chẳng sao, còn ngồi trên ghế, thì nguy hiểm lắm, họ vui thì họ dắt ghế, họ buồn thì họ cất ghế, khi đó mình phiền lắm, vì vậy mà tôi không có ngồi trên ghế nữa, chỉ xin ngồi dưới đất thôi. Cách đây khoảng 6 năm, có người đến vận động tôi ra làm việc cho Giáo Hội, khi nào có điều kiện sẽ trả lại trung tâm Liễu Quán lại cho Giáo Hội, tôi sẽ làm giám đốc trung tâm văn hóa Liễu Quán thế vai trò của Thượng Tọa Đức tâm. Nhưng tôi chỉ lắng nghe thôi, bởi vì, tôi biết rằng, tôi có 2 lỗ tai quý báu, là một điều kiện của hạnh phúc, cho nên tôi lắng nghe, nghe rồi, tôi biết tôi có cái miệng là một điều kiện của hạnh phúc, của phước báu, cho nên tôi cười. Sau khi tôi lắng nghe và cười, tôi biết rằng con mắt của tôi là một điều kiện của hạnh phúc, con mắt là một thực tại mầu nhiệm, tôi không để cho nó rơi vào thực tại khổ đau, nên tôi nhìn mấy người đó một cách thương xót, tôi nói rằng, thưa quý vị! Tôi tưởng rằng đi tu để làm gì chứ! Còn đi tu để làm giám đốc trung tâm văn hóa Liễu Quán, thì quê mùa quá. Nếu đi tu để làm giám đốc trung tâm văn hóa Liễu Quán, thì tôi ở ngoài đời, tôi cố gắng học để tôi làm Tổng thống, làm Thủ tướng, chứ làm giám đốc để làm chi. Tổng thống hay Thủ tướng tôi còn không thèm làm, bởi vì tôi thấy ngồi bất cứ chỗ nào trên danh lợi của cuộc đời cũng là ngồi trên gai, trên lửa. Tôi đã ngồi được trên đất rồi, chỗ ngồi đó là Như Lai tòa. Như Lai tòa là tòa ngồi nơi tất cả các pháp đều Không. Tôi đã có cái pháp tòa để ngồi rồi, nên tôi không tranh ai giữa này để ngồi nữa, ai chưa có chỗ ngồi, thì để cho họ ngồi, còn tôi đã có chỗ ngồi, tôi không ham gì giữa này. Họ nghe tôi nói như vậy, họ chắp tay lại, họ nói rằng, Thầy khác người quá. Tôi nói rằng, mỗi người có mỗi cách suy nghĩ riêng, không ai giống ai và bắt mọi người phải giống mình thì đó là một điên đảo. Chúng ta phải thấy thực tại của thế giới là không ai giống ai, nếu không nhận ra được điều đó chúng ta sẽ thất vọng, buồn chán và chúng ta sẽ trở thành lố bịch. Vì vậy, họ không giống tôi và tôi không giống họ, tôi không có tham vọng họ phải giống tôi và tôi cũng không điên đảo chi để giống họ. Họ cười, họ cảm ơn và ra về, họ học được bài học “ngồi trên đất”.
* Tiếp nhận với ý thức chánh niệm:
Quý vị phải thấy được chúng ta tu tập, nhưng nếu thiếu chánh niệm, thì chúng ta hay giong ruổi bên ngoài để tìm kiếm những cái không là gì trong đời sống đích thực của chúng ta. Mục đích của chúng ta là tu tập để có hạnh phúc, an lạc, giải thoát và đi đến với cái không bị mắc kẹt. Chúng ta sống mà không bị mắc kẹt, chúng ta sẽ giàu, chúng ta có thể thong dong tự tại khắp cả mười phương thế giới. Trái lại, khi chúng ta sống bị mắc kẹt, thì chúng ta đã tự nhốt chúng ta ở trong nhà tù mà chúng ta không hề hay biết. Bình thường, người thấp kém thì kẹt nơi cái ăn, cái uống, người có trí thức thì kẹt nơi văn chương, chữ nghĩa, người có quyền lực, thì kẹt nơi địa vị. Ở bất cứ địa vị nào, khi chúng ta làm việc gì mà tâm bị kẹt, thì chúng ta cũng đều trở thành người nghèo, bị trói buộc, thất vọng, không hạnh phúc và chúng ta có bị kẹt hay không cũng đều do nơi tâm thức của chúng ta mà ra. Chúng ta tu là chúng ta làm mọi công việc với tâm không bị mắc kẹt. Chúng ta làm bánh, nhưng tâm chúng ta không bị mắc kẹt nơi cái bánh, thì bánh rất ngon, bánh đó là bánh giải thoát. Còn khi chúng ta làm bánh với tâm bị mắc kẹt, thì bánh đó là bánh của ái triền. Lấy vợ, nhưng không bị mắc kẹt nơi vợ, thì vợ đó là thiện hữu tri thức. Lấy vợ, nhưng bị mắc kẹt nơi vợ, thì vợ đó là oan gia. Lấy chồng, nhưng không mắc kẹt nơi chồng, thì chồng đó là người hộ pháp, là thiện hữu tri thức. Lấy chồng, nhưng bị mắc kẹt, thì chồng đó là nợ nần phải trả. Như vậy, người biết tu tập, người đó làm hết mọi công việc với tâm không bị mắc kẹt. Khi đó, vị đó rất thoải mái, hạnh phúc, an lạc, thong dong trong hiện tại. Hiện tại là một thực tại mầu nhiệm với những gì chúng ta đang có đây và chúng ta có nên hẹn để ngày mai rồi tu không? Chúng ta đang có thân thể mầu nhiệm như thế này, có cả giang sơn gấm vóc, có thầy, có bạn, có cả dòng dõi, có cả lịch sử và các bậc thánh hiền đã trao truyền cho chúng ta tam tạng giáo điển một cách trọn vẹn như thế, chúng ta đã có quá đầy đủ rồi, chúng ta không còn thiếu cái gì nữa để mơ ước, nên bây giờ chúng ta không lo tu, thì đợi đến bao giờ nữa. Cách đây 8 năm, trong một buổi nói chuyện tại chùa Linh Mụ, tôi có gặp nhà văn Trần Dần, Phùng Quán, Pham Hữu Loan. Trần Dần có nói với tôi rằng: “Cái kho tàng văn hóa của nhân loại đã được các bậc Thánh thương con người mà thiết lập một cách trọn vẹn rồi, bây giờ kẻ hậu bối chúng ta, thường tự xem là văn minh tuyệt vời, thì dù có muốn thêm một dấu phẩy thôi, cũng không biết thêm vào đâu nữa”. Cho nên, quý vị phải thấy được các vị Thánh Hiền, các vị Minh Triết, vì thương thế hệ con cháu chúng ta mà cái gì đáng nói, các Ngài đã nói hết, cái gì đáng làm, các Ngài đã làm, các Ngài đã giúp cho chúng ta thấy được thực tại mầu nhiệm của chúng ta. Các Ngài nói, làm là để cho chúng ta sống đẹp, hướng dẫn cho chúng ta sống đẹp, bây giờ, chúng ta có chịu sống đẹp hay không là quyền của chúng ta. Chúng ta không được đổ lỗi cho bất cứ một ai, bất cứ một cái gì trên cuộc đời này, dù là ngọn cỏ hay là con kiến, con sâu, cái bất hạnh đến với chúng ta là do chúng ta tạo nên. Mặt trời, mặt trăng, trái đất, đại dương, dòng sông, cỏ cây, rong rêu có mặt là giúp chúng ta nhận ra thực tại mầu nhiệm. Con trâu, con chó, con mèo có mặt là giúp chúng ta nhận ra được sự tương quan, tương sinh để chúng ta sống có hạnh phúc. Ngay hạt cát nằm lạc loài giữa lòng sông cũng giúp chúng ta sống hạnh phúc. Nếu không có hạt cát giữa lòng sông, thì làm sao có thiền đường Trăng Rằm để chúng ta ngồi tu tập. Như vậy, một hạt cát mà còn có ý nghĩa như thế, huống chi chúng ta là con người, chúng ta có thân thể đầy đủ, có tâm hồn, tại sao chúng ta vẫn cảm thấy khổ? Chúng ta kêu khổ, là vì chúng ta quá tham, quá kiêu ngạo, vì chúng ta nhận thức sai lầm đối với thực tại mầu nhiệm đang có mặt chung quanh chúng ta. Chúng ta khổ là do chúng ta, chúng ta phải trở về nhận diện ở nơi chính bản thân chúng ta để thấy rằng, chúng ta đang có mặt là một thực tại mầu nhiệm đang có mặt và chúng ta phải biết nuôi dưỡng thực tại đó trong đời sống hàng ngày của chúng ta qua phương pháp chánh niệm tỉnh giác. Chúng ta càng có chánh niệm tỉnh giác bao nhiêu, thì chúng ta càng tránh khỏi lầm lỗi trong đời sống hàng ngày bấy nhiêu. Trái lại, nếu chúng ta sống thiếu chánh niệm tỉnh giác, thì chúng ta sẽ mắc phải lỗi lầm, chúng ta rơi vào tình trạng thất vọng, khổ đau. Khi chúng ta thất vọng, chúng ta càng mơ ước bao nhiêu, thì chúng ta càng thất vọng bấy nhiêu. Cứ thế mà cuộc đời của chúng ta đi từ khổ đau này đến khổ đau khác. Bây giờ, chúng ta tu tập tức là chúng ta dùng chánh niệm tỉnh giác để đập vỡ tâm thức ước mơ của chúng ta. Bởi vì, ước mơ đó đã đẩy chúng ta trở thành một đứa con hoang đi rong, tìm kiếm, lạc loài bơ vơ và thất vọng. Chúng ta là những người con có cha, có mẹ, có dòng dõi tâm linh, không có lý do nào chúng ta lại để cho chúng ta trở thành những đứa con hoang như thế. Chúng ta phải trở về ngồi thật sâu lắng, thực tập chánh niệm mỗi ngày, chúng ta càng thực tập chánh niệm bao nhiêu, thì cái vụng dại của chúng ta càng tiêu tan đi bấy nhiêu, trí tuệ của chúng ta càng sáng chói lên bấy nhiêu, giới đức của chúng ta càng tỏa rạng ra và định lực của chúng ta càng hùng tráng lên. Bởi vậy, thiền sư Nhất Hạnh có nói rằng: “Nếu một người càng thực tập chánh niệm, thì càng tránh đi những lỗi lầm trong đời sống hàng ngày của mình”. Thiền sư Nhất Hạnh có kể rằng, ngày xưa còn bé, có lần làm thị giả cho Sư Ông Chơn Thiệt, bưng cơm hầu Sư Ông mà bị thiếu đũa, nhưng Thị giả lại không biết, Sư Ông vẫn ngồi vào bàn ăn và dùng thìa để ăn. Khi ăn xong, Sư Ông Chơn Thiệt mới kêu Thị giả vào và nói rằng, này chú! Ngoài vườn của mình có tre không? Chú Thị giả mới trả lời rằng, dạ bạch Sư Ông, dạ có tre cán giáo. Chú hỏi tiếp rằng, bạch Sư Ông, Sư Ông hỏi tre để làm gì? Sư Ông mới bảo rằng, chú chặt vài cây tre để làm đũa. Khi đó vị Thị giả nhìn vào mâm cơm không có đũa, mới biết rằng chú thiếu chánh niệm, nên dọn cơm cho thầy mình mà thiếu đũa. Và Sư Ông Chơn Thiệt, vì ở trong chánh niệm nên không la chú. Thiền sư Nhất Hạnh bảo rằng, tôi nhớ chuyện đó suốt đời và không bao giờ để sai nữa. Cho nên, nếu chúng ta thiếu chánh niệm, thì chúng ta có thể dọn cơm thiếu đũa đến lần thứ hai, thứ ba... Điều này chúng ta cũng có thể học hỏi được, bởi vì nó cũng là chuyện thường xảy ra ở trong gia đình. Nếu chúng ta thiếu chánh niệm, thì khi đó chúng ta sẽ sử dụng cái miệng của chúng ta cho mục tiêu thấp kém, khi đó gia đình chúng ta sẽ trở thành địa ngục. Trái lại, nếu chúng ta có chánh niệm, chúng ta sử dụng những lời lẽ dễ thương để đối xử với nhau, thì không khí gia đình sẽ ấm cúng, hạnh phúc ngay. Vậy, tại sao chúng ta không chịu tu tập chánh niệm? Chúng ta còn mơ ước điều gì nữa? Chúng ta phải thấy được rằng, mỗi thân tâm của chúng ta là một nguồn năng lượng hạnh phúc và an lạc, hạnh phúc đó không phải là ước mơ, mà nó đã trở thành một điều kiện hiện thực trong gia đình của chúng ta.
Như vậy, gia đình của chúng ta, ông, bà, ba, mẹ, anh, em, vợ, chồng, con cái là một thực tại, nếu chúng ta được trang bị bằng năng lượng chánh niệm, tỉnh giác, bằng năng lượng yêu thương hàng ngày, bằng sự giúp nhau cho mục tiêu cao đẹp, thì chúng ta không cần mơ cõi tịnh độ mà tịnh độ cũng có ngay đây. Chúng ta chỉ cần thực tập là chúng ta trở thành thánh ngay, gia đình của chúng ta trở thành cõi tịnh độ ngay. Tịnh độ không phải là cõi ước mơ, làm thánh không phải là một điều hứa hẹn, mà chúng ta chỉ cần quay về nhận diện thật sâu sắc, nuôi dưỡng thân và tâm trong chánh niệm, tỉnh giác là ngày nào chúng ta cũng có hạnh phúc, an lạc. Cái hạnh phúc lớn lao nó phải bắt đầu từ những hạnh phúc nhỏ bé. Nếu chúng ta loại bỏ hạnh phúc, an lạc trong cái nhỏ, thì chúng ta sẽ không có hạnh phúc lớn trong cuộc đời. Người ta thường ưa làm chuyện lớn mà không ưa làm chuyện nhỏ. Nhưng vì, cái lớn nào cũng bắt đầu từ cái nhỏ, cái lớn là cái phóng đại của cái nhỏ, cái nhỏ là cái lõi của cái lớn. Do đó, chúng ta muốn có hạnh phúc lâu dài, chúng ta phải tạo ra năng lượng hạnh phúc của chính bản thân trong từng cử chỉ, trong từng động tác, trong từng lời nói nho nhỏ của chúng ta. Và nếu chúng ta có hạnh phúc trong từng động tác nhỏ đó, thì chắc chắn rằng chúng ta có được hạnh phúc rất lớn, rất bền không những trong hiện tại mà trong tương lai, không những trong đời này mà vô số đời sau nữa. Như vậy, chúng ta có thấy thực tại đẹp hơn giấc mơ không!
(Học trò Nhuận Thuần Nguyên kính ghi từ băng giảng)
1 comment:
Ra cõi thực – Ước mơ dừng lại
Đâu kỳ vọng mọi cái diệu kỳ
Bước vào mơ – bước chuyển di
Ước mơ hóan vị lưỡng nghi ngược giòng
Không hay Muốn – Đời hồng hóa tối
Đứa trẻ chờ diện-đối trưởng thành
Một đời bất luận bất tranh
Ước mơ không chạm tâm thành không lay 23:21pm
Ước mơ đó...một đời rong ruổi
Gánh trên vai...vận rủi đời xui
Chẳng hờn chẳng trách...gượng vui
Đẩy duyên đưa phận ngược xuôi thăng trầm
Nửa đời ngỏanh lại, còn hay mất?
Lặng lùi vào góc khuất hoang mang
Ước mơ chưa trọn bàng hòang
Giấu vào hiện thực chôn tan mộng vàng
27 Nov.11 Sun 23:19Pm
Post a Comment